Đất đai là nguồn tài nguyên vô hạn sẽ mang lại lợi ích to lớn cho nhân loại. Ngày nay, đất đai tham gia vào mọi hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất có thể là thành phố, làng mạc hoặc địa điểm làm nền tảng cho các hoạt động công nghiệp, giao thông hoặc thủy lợi. Hãy cùng norfolk-by-design.com tìm hiểu về tín ngưỡng là gì? qua bài viết dưới đây nhé!

I. Tín ngưỡng là gì

Đất tín ngưỡng là một loại đất phi nông nghiệp và được pháp luật công nhận lần đầu tiên trong Đạo luật đất đai năm 1987

Đất tín ngưỡng là một loại đất phi nông nghiệp và được pháp luật công nhận lần đầu tiên trong Đạo luật đất đai năm 1987. Trong cuộc sống hàng ngày, đất đai đóng một vai trò rất quan trọng, và đất đai tôn giáo cũng đóng một vai trò đó, đó là điều tuyệt vời đối với cuộc sống của con người.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, quy định tại Mục 160 Luật Đất đai 2013, đất tôn giáo bao gồm đất có đình, đền, miếu, am, từ đường và nơi thờ tự. Việc sử dụng đất tôn giáo của các tín đồ phải đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch cơ sở, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước phê duyệt.

Thẩm quyền ủy quyền theo quy định của Luật đất đai. Cần lưu ý, việc xây dựng, mở rộng nhà ở cộng đồng, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

II. Nguyên tắc hoạt động tín ngưỡng như thế nào

Điều 10 của Đạo luật Tín ngưỡng và Tôn giáo 2016 đưa ra các nguyên tắc tổ chức các hoạt động tín ngưỡng. Cụ thể như sau:

  • Các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của Nhà nước.
  • Việc tổ chức các hoạt động tôn giáo, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm an toàn, trật tự an toàn xã hội, tiết kiệm và bảo vệ môi trường.

III. Phân loại tín ngưỡng tại Việt Nam

1. Tín ngưỡng phồn thực

Niềm tin vào khả năng sinh sản đã được hình thành từ rất lâu trước lịch sử, dựa trên những suy nghĩ và cảm nhận trực quan của cư dân nông nghiệp trước khi sinh sản để duy trì sự sống của con người, động vật và thực vật.

Họ tìm thấy sức mạnh siêu nhiên trong thực tại đó và tôn thờ các hiện vật và thực tế là linh thiêng. Như vậy, bản chất của tôn giáo trọng sinh là tín ngưỡng tìm kiếm sự sinh sôi và dồi dào.

Họ tìm thấy sức mạnh siêu nhiên trong thực tại đó và tôn thờ các hiện vật và thực tế là linh thiêng

Niềm tin vào khả năng sinh sản đã tồn tại dưới hai hình thức trong suốt lịch sử, và việc thờ cúng bộ phận sinh dục nam và nữ được coi là tín ngưỡng thờ cúng năng lượng sống thực. Đây là một dạng tín ngưỡng đơn giản về khả năng sinh sản và rất phổ biến trong các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới.

2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên

Thờ tự nhiên là một giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Đối với người Việt Nam vốn gắn bó với thiên nhiên ngày càng bền chặt, việc phụ thuộc đồng thời vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên đã dẫn đến những hệ quả trong lĩnh vực nhận thức.

Bản chất tiêu cực của văn hóa trọng nông dẫn đến kết quả là các quan hệ xã hội có lối sống thiên về phụ nữ, và trong tôn giáo, địa vị nữ thần chiếm ưu thế, do đó, tục thờ Mẫu đã trở thành một tín ngưỡng đặc trưng ở Việt Nam.

IV. Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan 

Đầu tiên, các nhà truyền giáo tôn giáo dựa vào việc truyền bá đức tin của các dân tộc bản địa. Cộng đồng cũng học được những điểm đúng đắn về nghi lễ, cách bố trí nơi thờ tự, … Thứ hai, hoạt động mê tín dị đoan không có nơi thờ tự chính thức thì phải thuê các cơ sở thờ tự tôn giáo, dân gian.

Nhờ đó, “niềm tin” với khách hàng tăng lên. Thứ ba, tôn giáo và tín ngưỡng dân gian do sự thiếu hiểu biết của người dân đã lợi dụng các thủ đoạn mê tín dị đoan để tăng thêm tính huyền bí của một số nghi lễ ngoài tôn giáo và tín ngưỡng vay mượn.

Người hành nghề mê tín dị đoan có thể học được thế cờ quyết để thực hành trừ tà từ các pháp sư … Thứ tư, người hành nghề mê tín hoạt động trong các cơ sở tín ngưỡng, thờ tự dân gian dễ tiếp cận được đông đảo khách hàng, lợi ích thu về còn lớn hơn.

V. Sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo 

1. Sự giống nhau

Thứ nhất, tôn giáo (Thiên chúa giáo, Phật giáo, Tin lành, …) và tín ngưỡng (thờ cúng tổ tiên, tân hoàng, thờ mẫu, v.v.) đều là niềm tin về những gì mà tôn giáo, tín ngưỡng truyền tải. Ngay cả khi không thể nhìn thấy Thượng đế, Đức Phật có một cơ thể vật lý và không thể nghe thấy tiếng nói của Thượng đế.

Thứ hai, tôn giáo, tín ngưỡng là nguyên lý của tôn giáo, tín ngưỡng, có tác dụng điều chỉnh hành động của cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, với cộng đồng, giải quyết các mối quan hệ. Dựa trên những lời dạy của tôn giáo, một người được tôn thờ.

2. Sự khác nhau

Thứ nhất, tôn giáo cần những người lãnh đạo, giáo lý, giáo luật và tín đồ, nhưng tín ngưỡng dân gian thì không. Hồng y là người sáng lập ra tôn giáo và giáo lý là giáo lý của Hồng y đối với các tín đồ.

Luật Giáo hội là luật do Giáo hội viết ra. Tín đồ là người tự nguyện theo đạo. Thứ hai, công dân có thể đồng thời sống theo nhiều tôn giáo khác nhau. Có thể cúng tổ tiên cùng một lúc nhưng vào ngày 1 và 15 âm lịch, thánh được thờ ở đình làng, thờ mẹ ở đền, miếu.

Thứ nhất, tôn giáo cần những người lãnh đạo, giáo lý, giáo luật và tín đồ, nhưng tín ngưỡng dân gian thì không

Thứ ba, tôn giáo có một quy mô lớn, hệ thống cổ điển, và tôn giáo chỉ có một số lễ tế, văn khấn và bài hát. Thứ tư, trong khi tôn giáo có các giáo sĩ chuyên nghiệp theo nghề của họ suốt đời, thì không có ai trong tín ngưỡng dân gian làm việc chuyên nghiệp.

Trên đây là những chia sẻ băn khoăn tín ngưỡng là gì? Mong rằng chúng tôi đã giải đáp được mọi thắc mắc và băn khoăn của bạn. Tôi hy vọng bạn có thể lựa chọn đúng về tôn giáo và tín ngưỡng.